"HIỆN TƯỢNG VIỆT THƯỜNG"

SUY NGHĨ VỀ CÁI GỌI LÀ "HIỆN TƯỢNG VIỆT THƯỜNG"

Hà Tiến Nhất

Xin cho có đôi lời trước.

Tôi không hân hạnh quen biết các ông Việt Thường, ông Nguyễn Phương Anh, ông Văn Tình. Quí ông kẻ thì chống Việt gian bán nước, người tranh đấu đòi dân chủ, những việc làm đó tất cả đều tốt. Tôi chỉ là người bàng quan đối với các ông, nhìn vào để nhận xét, đánh giá và học hỏi. Những điều tôi viết dưới đây nếu có gì thiên lệch hoặc sai quấy, xin quí vị vui lòng chỉ giáo bằng lý luận và bằng chứng minh cụ thể. Tôi xin cám ơn, sẵn sàng phục thiện và sửa sai. Chửi bới và bôi đen là vũ khí của quân tiểu nhân, là hạ sách và hạ cấp. Tôi không chấp nhận. Lý do đơn giản, tôi không phải là người bán cá bán thịt ngoài chợ. Tôi là một người lính QLVNCH.

Tôi xin vào đề.

Hai bài viết dưới đây là của hai nhân vật. Một bài của ông Nguyễn Phương Anh, một người được dư luận biết đến với phương danh là Nhà-tranh-đấu-cho-dân-chủ. Một bài nữa của quí vị khác có quí danh là Văn Tình. Quí ông Văn Tình mới thấy xuất hiện trên diễn đàn điện tử nên không rõ ông có phải là Nhà-tranh-đấu-cho-dân-chủ hay không. Tuy nhiên, cả hai bài viết đều có cùng một văn phong và hầu như cùng một nội dung nên người ta dễ nhận ra cả hai quí vị này đều có cùng một lập trường và đường lối đấu tranh.

Quí ông Văn Tình gọi ông Việt Thường (VT) là một "Hiện Tượng". Hơn nữa cái hiện tượng này ông còn cho là quái đản. Thôi thì cứ tạm cho ông VT là một hiện tượng đi, nhưng làm sao lại quái đản? Ông Văn Tình giải thích: "Rõ ràng đây là một người hận thù cộng sản sâu sắc và chống cộng rất cực đoan.".

À thì ra vậy. Quái đản nghĩa là hận thù CS sâu sắc và chống cộng rất cực đoan. Ông Văn Tình cho rằng ông VT hận thù CS sâu sắc. Không biết ông Văn Tình có ý khen hay chê ông VT. Nhưng dù gì thì nhận xét của ông Văn Tình rất đúng ở điểm ông VT sâu sắc. Nghĩa là ông VT chống cộng không hàm hồ, trái lại rất đạt lý và cũng rất biện chứng. Còn nói rằng ông VT cực đoan thì rõ ràng ông Văn Tình đã rơi vào tình trạng tự mâu thuẫn. Này nhá, ông Văn Tình hãy thử nghĩ coi, VC tàn bạo dã man và phi dân chủ như thế từ khi chúng nắm quyền, và bây giờ cũng vẫn còn như thế, đến nỗi chính ông Văn Tình cũng phải chống lại VC, thì thử hỏi không gọi VC là cực đoan thì phải gọi là gì? Xin ông Văn Tình cho một chữ thích hợp. Tại sao ông VT mới chỉ chửi VC mà ông đã cho là cực đoan, còn VC bỏ tù ông VT bao nhiêu năm trời trở thành tàn phế thì lại là không cực đoan? Theo tôi nghĩ dùng chữ cực đoan cho VC còn quá nhẹ nhàng và dễ dãi cho chúng. Và, giữa ông VT với VC, Ai cực đoan hơn ai? Cũng xin ông Văn Tình cho một câu trả lời chính xác.

Theo dõi (nghe và đọc) người được ông Văn Tình gọi là "Hiện Tượng VT", tôi có 2 nhận định sau đây: thứ nhất, ông VT nhận thức và có sự hiểu biết về CS rất sâu sắc. Và thứ hai, ông VT phê phán khá chính xác về các nhân vật hiện nay được gọi là Nhà-dân- chủ.

1. NHẬN THỨC SÂU SẮC.

Trên diễn đàn VietnamExodus ông VT tuyên bố: "Tôi không chống cộng". Một điều đáng kinh ngạc nhưng lại rất chí lý. Thử suy nghĩ thế này: Ông Văn Tình chống cộng, nhưng nếu VC biện bạch với ông rằng: "Từ nguyên thủy, CS là một lý thuyết đưa ra đường lối chống bất công xã hội, giải phóng con người để ai nấy được tự do bình quyền bình đẳng. Chỉ là trong quá trình thực hiện lý thuyết này, chúng tôi (VC) có vấp phải một số sai lầm. Nay thì chúng tôi xin nhận lỗi và hứa sẽ sửa sai." Vậy thử hỏi ông Văn Tình còn chống cộng được nữa không, hay đành chịu đuối lý và tha tào cho VC?

Xem ra xưa nay chưa thấy có ai chỉ danh được chính xác Hồ Chí Minh (HCM) và đảng CS của hắn, đồng thời xác định được đúng tội ác của HCM và đảng CSVN. Ông VT đã làm được việc này. Ông xác định danh tánh của HCM và đảng CSVN là "VIỆT GIAN TAY SAI" và tội danh của chúng là "BÁN NƯỚC". Ông VT không hàm hồ vô căn cứ, mà nói có sách mách có chứng đàng hoàng. Ông lý luận vững chắc và chứng minh bằng những văn kiện chính thức của đảng CSVN mà nay đã trở thành tài liệu lịch sử; bằng nêu ra hành động bán đất, bán biển của đảng CSVN rõ ràng sờ sờ không thể phủ nhận được. Đứng trên bình diện dân tộc và trên truyền thống nhân ái là đặc tính của người Vietnam, nhân dân VN có thể tha thứ cho Hồ và đảng CSVN tội ác giết dân hại nước, nhưng dứt khoát không thể tha thứ tội Bán Nước của chúng? Lịch sử đã chứng minh từ cha ông chúng ta cho đến nay, chưa có tên Việt gian bán nước nào được lịch sử và nhân dân tha thứ cả. Như thế HCM và đảng CSVN cũng không thể ngoại lệ.

2. Phê Phán Chính Xác

Nếu lấy nhận định trên đây làm tiền đề, thì tiền đề này sẽ dẫn tới cái hệ luận là: bất cứ ai tranh đấu cho dân chủ mà chấp nhận cho NHỮNG TÊN CS VIỆT GIAN TAY SAI BÁN NƯỚC được quyền tham dự trong bất cứ cuộc bầu cử nào, dù là công bình, fair hay không đều là dân chủ cuội. Bao lâu các Nhà-dân-chủ không thừa nhận đảng CSVN là một đạo quân đánh thuê cho Quốc Tế 3 CS như chính Hồ đã công khai thừa nhận, và cái đảng này đã bán đất bán biển cho Tầu cộng thì bấy lâu việc tranh đấu của họ đều không có chính nghĩa. Cái ý tưởng đòi hỏi VC tạo một sân chơi bình đẳng cho mọi phe phái trong cuộc bầu cử chỉ là tự đánh lừa mình, lừa bịp dư luận, và là một ảo tưởng. Cuội hay không cuội là ở điểm này.

Tôi (người viết) đồng ý với ông VT, và tôi kết luận là tiên quyết phải dẹp cái đảng Việt gian bán nước này đi đã rồi mới chơi trò dân chủ với nhau được. Đó mới là dân chủ thật. Dựa vào 3 yếu tố để biện lý:

a/ Pháp Lý

Bầu cử với Việt gian bán nước tự nó vừa phi dân chủ lại vừa phi pháp. Tự do dân chủ là quyền lợi của mọi công dân. VC là những tên bán nước. Những kẻ phạm tội bán nước đương nhiên bị mất quyền công dân, không còn được quyền bầu cử hay ứng cử nữa.

b/ Lý Luận

Căn cứ vào thực tế "CS là phi dân chủ" rồi thử lý luận một cách rất bình dân học vụ thôi mà coi:

(+5) + (-5) = 0

Dân chủ + Phi Dân Chủ = là cái gì đây?

Nếu miễn cưỡng là một cái gì đó thì chỉ là đổ máu. Lịch sử đất nước thời Việt Minh (1946-49) đã chứng minh điều đó.

c/ Kinh Nghiệm

VC đang nắm quyền toàn trị về mọi mặt trên đời sống xã hội, có thế nào chúng lại chịu để thua trong một cuộc bầu cử? Nếu thua chúng lại chịu trao quyền sao? Hãy nhìn xem nước láng giềng Cam Bốt để rút kinh nghiệm. Chỉ có tại các quốc gia dân chủ Tây phương mới có chuyện trao quyền êm thắm giữa các đảng chính trị sau cuộc bầu cử. Còn tại các nước độc tài độc đoán như VN, chuyện đó không thể và không bao giờ xẩy ra.

Kết luận: bầu cử với VC vừa là không tưởng, vừa phi pháp, lại vừa phản dân chủ.

Trong tình trạng hỗn tạp hiện nay, các Nhà-dân-chủ có thể được tạm phân chia ra làm 2 thành phần: Thành phần gốc gác CS (đảng viên) và thành phần không có gốc cộng sản. Thành phần không có gốc CS họ hiểu rõ thế nào là dân chủ vì họ đã sống trong môi trường dân chủ. Một số người trong họ (một số chứ không phải tất cả, tôi xin nhấn mạnh) tranh đấu vì tinh thần yêu nước thực. Nhưng điểm yếu của họ là thiếu kiên định và hời hợt. Họ có thể dễ dàng tin bất cứ ai. Trong đấu tranh, có người đã bỏ đi cái sở trường để ôm lấy cái sở đoản. Thành ra việc tranh đấu của họ đã khó càng trở nên khó khăn thêm. Dễ bị lợi dụng và cũng dễ bị VC và tay sai đốt cháy. Trái lại, thành phần gốc CS lại rất kiên định và bảo thủ, không bao giờ chịu bỏ đi cái hào quang ảo của họ là đã đuổi thực dân, thắng đế quốc, dành độc lập, thống nhất Tổ Quốc. Vì thế họ đòi dân chủ trước hết là dân chủ trong đảng CS để họ có tiếng nói của họ trong đảng. Cái dân chủ của họ là thứ dân chủ mà bao gi ĐẢNG CŨNG PHẢI LÃNH ĐẠO ĐÂT NƯỚC, vì họ cho rằng đảng của họ đã có công với đất nước. Chừng nào những người này họ ý thức được rằng cho dù có thắng thực dân đế quốc thì HCM và đảng CSVN của họ cũng chỉ làm Việt gian tay sai chiến đấu cho đế quốc đỏ để nô dịch hóa dân tộc VN mà thôi. Xâm lăng miền Nam chính là cuộc giết hại những người thực sự yêu nước chiến đấu để bảo vệ tự do dân chủ cho đất nước. Như thế họ mới nhận thức được thế nào là dân chủ thực, và mục tiêu tranh đấu của họ mới không bị lệch lạc. Họ muốn thực tâm tranh đấu cho dân chủ thì trước hết họ phải từ bỏ đảng và những hào quang ảo của nó đi đã.

Nhưng mà thay đổi một người CS thật là khó. Boris Yeltsin đã nói rồi. Có thể hiểu được như thế này. Người quốc gia mất đi tất cả, nhưng họ còn giữ lại được cái đáng giữ nhất. Đó là cái chính nghĩa của họ. Họ đã đem xương máu chống tập đoàn bán nước HCM để bảo vệ tự do dân chủ cho đất nước mặc dầu cuộc chiến đấu không thành. Họ hãnh diện và ngẩng cao đầu vì cái lý tưởng đó. Trái lại, những người CS đã ly khai, đa số họ cũng đã mất đi nhiều thứ, chỉ còn giữ được cái hào quang ảo mà họ tưởng là thật. Đòi họ phải bỏ đi cả cái hào quang ảo kia, tức là bắt họ phải mất trắng tay, chẳng còn lại cái gì. Họ đành chịu sao? Đó là lý do khó thay đổi được não trạng của người CSVN.

Luận về cái gọi là "Hiện Tượng Việt Thường". Tôi không có ý khen ông VT. Chỉ thấy ông đúng thì bảo là đúng. Thế thôi. Giả như trước kia ông ta có làm ma cô đĩ điếm, ăn cướp ăn trộm, tôi không care, miễn là ông ta chống bọn bán nước và chống đúng. Nếu sau này ông ta tự phản lại ông ta, tôi sẽ lại phê phán ông ta như thường. Còn với những nhà-dân-chủ tôi xin có một lời chân tình là quí vị có bất đồng chính kiến đối lập lập trường với ai, quí vị nên phản biện (kể cả đấu tranh) bằng lý luận và bằng chứng cớ cụ thể. Như thế mới có sức thuyết phục. Nhân vô thập toàn. Chẳng ai là thánh sống cả. Vấy bùn bôi bẩn không phải là hành vi của bậc trượng phu.


posted under | 0 Comments

NHỚ VIỆC CŨ ĐỪNG QUÊN VIỆC MỚI

Nam Nhân (Quân nhân QLVNCH)

Bốn tháng đầu của năm 2008 qua đi thật mau. Nam Nhân tôi, với tư cách một sĩ quan trong Quân chủng Không quân của VNCH, một cựu tù nhân trong nhà tù của Việt gian cộng sản sau 30-4-1975, và khi ra tù thoát tới bến TỰ DO ở Anh quốc đã từng đảm nhiệm trách vụ Chủ tịch Cộng đồng người Việt tỵ nạn Việt gian cộng sản ở Miền Trung Anh quốc. Cuối nhiệm kỳ vừa qua, thì xin nghỉ để có thể tập trung vào mặt trận truyền thông, chống Việt gian cộng sản và tay sai nằm vùng.

Nam Nhân tôi vẫn coi mình là một quân nhân hiện dịch của QLVNCH và vẫn khắc trong tim, óc lời thề: TỔ QUỐC - DANH DỰ - TRÁCH NHIỆM. Tình thế mới, không thể dùng quân sự được nữa, Nam Nhân đổi súng lấy bút, noi gương tổ tiên khi chống quân xâm lược; noi gương các vị đàn anh với bao tấm gương bất khuất; noi gương các trí giả, thức giả để hiểu rõ ĐỊCH, TA trên mọi mặt trận, nhất là truyền thông, báo chí. Đồng thời, cũng quan tâm đến việc bảo tồn Văn hóa truyền thống Việt trong Cộng đồng người Việt tỵ nạn trên đất tạm dung. Đó là lý do sự ra đời của Tạp chí Hồn Việt và Web Hồn Việt UK Online, từ hơn một chục năm nay.

Khi xưa trong quân ngũ, chiến đấu với kẻ thù hữu hình, có sự giúp đỡ của đồng đội, của chỉ huy, mọi sự đều rõ ràng. Còn nay, kẻ thù hữu hình thì ở xa mà vô hình thì ở gần. Càng ngày càng thấy mặt trận truyền thông tư tưởng thật là phức tạp. Mà cái khó nhất là phải xác định được hình thể của kẻ thù: GỌI ĐÚNG TÊN, NÊU ĐÚNG TỘI. Đến khi biết được Đảng cộng sản Việt nam là TỘI ĐỒ CỦA NHÂN DÂN VÀ ĐẤT NƯỚC VN với cái tội là VIỆT GIAN BÁN NƯỚC GIẾT DÂN thì lại thấy các loại DUNG MÔI SÚC TÁC giúp đắc lực, tạo điều kiện hiệu quả CHO ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT GIAN THÀNH CÔNG NHỮNG ÂM MƯU TỘI LỖI, thật phức tạp muôn hình muôn vẻ. Chúng đổi màu, ẩn náu như tắc kè. Chúng như vi trùng các loại bệnh dịch.

Như mọi qui luật của tự nhiên, cái gì hễ có tác dụng thì cũng có phản tác dụng. Và “đi đêm lắm có ngày gặp ma” hoặc “kim để trong bọc lâu ngày cũng lộ”. Cho nên dù, lưu manh chuyên nghiệp của Tập đoàn Việt gian cộng sản, cũng không thể hóa giải được cái qui luật TÁC DỤNG và PHẢN TÁC DỤNG!

SỰ ĐỔ BỂ CỦA NGHỊ QUYẾT VIỆT GIAN 36

Sau khi thấy những tên đặc công đỏ như Bùi Tín, Vũ thư Hiên, Đoàn viết Hoạt, Nguyễn gia Kiểng… khuấy động được phần nào những hoạt động của một số người trong Cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản đi vào cái bẫy “Hòa giả - Hòa hợp” và lập các thứ quỹ cứu trợ “Nhân dân trong nước”(phần rất lớn không có thương phế binh và thân nhân của QLVNCH) cũng như cái khẩu hiệu nồng nặc mùi ma túy là “Quên quá khứ, xóa bỏ hận thù, cùng chung tay xây dựng lại đất nước VN”, Việt gian cộng sản chắc mẩm sắp đến lúc HÒA BÌNH XÂM LƯỢC CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TỴ NẠN thành công. Chuyện đó khỏi cần nhắc lại, chắc chắn nhiều người còn nhớ. Chúng ta tuy chưa có một Bộ Chỉ huy thống nhất, nhưng những sáng kiến của từng nhóm, từng địa phương với cùng mục tiêu là VINH DANH CỜ VÀNG, BẢO VỆ CHÍNH NGHĨA QUỐC GIA, đã có nhiều KẾT QUẢ TỐT, tuy không thiếu lũ nằm vùng, lũ trở cờ, lũ thành phần thứ ba cũ trá hình và nhất là các đảng ma trơi gây trở ngại hệt như chúng đã thực thi ở VNCH từ trước tháng 4-1975. Tập đoàn Việt gian cộng sản đã PHẢI MỞ RỘNG và GIA TĂNG BỘ MÁY XÂM LƯỢC CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT NHIỀU USD VÀ GIÀU CHẤT XÁM này. Và công tác VIỆT KIỀU là công tác trọng tâm của tất cả các Bộ, các Ngành, từ trung ương tới tỉnh, thành, huyện, xã của nhà nước ngụy quyền Việt gian cộng sản.

Ngay Bộ Chính trị Việt gian cộng sản, cũng đã phải đẻ ra nhiều chỉ thị, nghị quyết cho chiến dịch hòa bình xâm lược này. Và, nghị quyết 36 chính là Lệnh Tổng tấn công trên mọi bình diện nhằm vào những thành trì của Cộng đồng người Việt tỵ nạn Việt gian cộng sản. Nghị quyết 36 cũng là lệnh tổng nổi dậy cho lũ nằm vùng các loại, trên nhiều lĩnh vực sinh hoạt của Cộng đồng người Việt tỵ nạn Việt gian cộng sản, từ văn nghệ, học thuật, kinh tế , truyền thông báo chí, tôn giáo, nhưng cần nhất phải quy về một xu hướng chính trị bằng đẻ ra nhiều hội đoàn “phi chính trị”.

Thí dụ: Hội từ thiện thì quyên góp tiền giúp người nghèo, mở trường học, nhà thương; tổ chức tôn giáo thì quyên tiền xây Chùa, Nhà thờ và bảo lãnh cho các công an trọc đầu, công an mặc áo trùng thâm sang du học, “hành đạo”. Ngoại trừ Tổ chức giúp Thuyền nhân của Ts Nguyễn đình Thắng, Tổ chức giúp đỡ để tri ân các thương phế binh QLVNCH và thân nhân những vị đó là ĐÚNG. Còn các loại Hội từ thiện và tôn giáo “phi chính trị” kia chỉ là một lối từ từ lái mọi người đi vào quỹ đạo Việt gian cộng sản, đến lúc tỉnh ra thì ĐÃ MUỘN!!!

Thử hỏi, đất nước VNCH của anh bị Việt gian cộng sản chiếm đoạt, anh muốn về thăm cũng PHẢI XIN PHÉP chúng. Anh muốn ở thăm bao lâu cũng do chúng QUYẾT ĐỊNH. Anh bị đuổi ra khỏi nước, may mắn sống sót, phải làm cật lực mới có tiền dư. Nay lại “thắt lưng buộc bụng” đem về CÚNG cho chúng, thử hỏi nếu có bộ óc bình thường thì khách quan trả lời xem đó là hành động của nạn nhân thực hay hành động của kẻ được cử đi “nằm vùng”?!

Về văn nghệ thì cho lẫn lộn từ tác phẩm đến con người Việt gian cộng sản với Nạn Nhân của Việt gian cộng sản!

Đoàn viết Hoạt thì kêu gọi hãy cho treo Quốc kỳ VNCH chung với cờ Máu, có như thế mới chứng tỏ “Cộng đồng người Việt hải ngoại đã trưởng thành”!!!

Bùi Tín thì kêu gọi “ở hải ngoại không cần treo cờ nào cả” nhưng hắn lại nói rõ quan điểm của hắn là “không chấp nhận cờ vàng, vì lá cờ ấy do thực dân Pháp đặt ra và lá cờ ấy đã theo gót thực dân Pháp bắn giết những người “yêu nước”, còn cờ Máu dù sao cũng hào hùng trong chiến tranh giải phóng, được đa số nhân dân VN chấp nhận và cả quốc tế nữa, nó có mặt ở cả trụ sở Liên Hiệp quốc!? Bùi Tín còn kêu gọi ở hải ngoại hãy lập 4 quỹ tình thương, mỗi người góp một ngày lương trong tháng cho quỹ, để làm mọi thứ chuyện xây dựng ở VN, kể cả Giúp Thương phế binh Vừa và Nặng của cả HAI BÊN (?!!!), còn hơn là ra các nghị quyết (chống cộng) và biểu tình rất rất nhiều.

Vũ thư Hiên thì BÀO CHỮA cho việc Việt gian cộng sản xâm lược VNCH theo lộ trình bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ Nga-xô và Tàu cộng, rằng TẠI “Chính phủ Ngô đình Diệm cho đấu tố, bắn giết những người “YÊU NƯỚC” ở miền Nam, nên nhân dân miền Nam nổi dậy, BẤY GIỜ miền Bắc mới tiếp viện cho miền NAM”!!!? Và vụ Nông thị Xuân, đâu phải là Hiên định tố cáo Hồ, mà mục đích chính là nhằm vào Trần Quốc Hoàn, kẻ thù của cha con Hiên. Ngoài ra Hiên nghĩ bật mí việc đó CÀNG NẶNG KÝ cho âm mưu dựng chuyện HỒ BỊ MẤT QUYỀN LỰC. Cho nên liền ngay đó, Hiên lại sử dụng thói quen dùng miệng NHÂN VẬT THỨ BA để chạy tội cho Hồ. Đó là, Nguyễn Tạo (từng có chân trong trung ương Việt gian cộng sản) cho Hiên biết Hồ “rất tình người và cũng đau khổ nhưng không làm gì khác được”(có nghĩa bị mất quyền lực!?). Ai ngờ Thiên bất dung gian, nên phần lớn người đọc cuốn Đêm giữa ban ngày, chỉ nhớ phần Hồ ngủ với Nông thị Xuân có con mà ác ôn cho tay chân là Trần quốc Hoàn thủ tiêu, còn ít ai CHÚ Ý những dòng Hiên minh oan cho Hồ (và ca ngợi một thằng Việt gian, giết nhiều triệu người VN là “TÌNH NGƯỜI”)!

Vũ thư Hiên cũng là kẻ tổ chức ra mắt Văn phòng Hội chống tham nhũng ở hải ngoại, ngay tại Cali, đồng thời giới thiệu tên “lãnh tụ” của Hội là Trần Khuê (tác giả Chủ nghĩa Hồ chí Minh) là Chủ tịch và Phạm quế Dương (cựu đại tá ngụy quân Việt gian cộng sản) là Phó chủ tịch!!!? Đồng thời cũng nhân dịp đó, Hiên long trọng giới thiệu “tác phẩm Đối thoại 2000 của Trần Khuê, mà nội dung chính của “tác phẩm” là chứng minh VN phải đi theo CN Hồ chí Minh, và nâng Hồ lên là “Thánh”!!! Ở Pháp, Đức, Canada, Ba lan đều được Hiên cho ra mắt Văn phòng Hội chống tham nhũng, với cương lĩnh hoạt động như một tổ chức ĐẢNG. Như thế có nghĩa, trong lòng Cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản, song song với các tổ chức chống Việt gian cộng sản của chúng ta, còn có tổ chức mà lãnh tụ là Cha đẻ của CN Hồ chí Minh, có nghĩa Hồ chí Minh là LÃNH TỤ TỐI CAO của cái Tổ chức gọi là chống tham nhũng. Tên tổ chức (hay đảng) là Chống Tham Nhũng nhưng nó vẫn có thể hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác lắm chứ. Tỷ như cái gọi là Đảng Lao động của Hồ khi xưa, nó đâu có LAO ĐỘNG mà chỉ chém giết, cướp bóc. Cũng may là có nhiều tiếng nói vạch mặt kịp thời Bộ Mặt Đặc Công Đỏ của Hiên. Cho đến nay vẫn còn có số người nào đó, không nhìn ra được bộ mặt thật, RẤT NGUY HIỂM của Hiên.

Còn Nguyễn thanh Giang thì kêu gọi Hải ngọai làm lễ tưởng niệm cho tên trung tướng ngụy Trần Độ, tôn xưng hắn là HAI lần anh hùng, trong đó một anh hùng là “giải phóng miền Nam” (khỏi tay Mỹ - Ngụy). Thích bình luận chính trị và làm chính trị mà qua hành động đó của Nguyễn thanh Giang, vẫn chưa nhận ra lập trường chính trị của Giang, còn đao to búa lớn với những tiếng nói cảnh giác quan điểm mơ hồ về dân chủ của Giang, tiếp tục bốc thơm, ca tụng cho đến lúc Giang lên tiếng phê phán những người phản đối bọn VietWeekly là CỰC ĐOAN thì lẳng lặng rút lui, không đủ liêm sỉ nhận sai lầm, chứ chưa nói đến là XIN LỖI người “có tội” tinh mắt hơn mình!!!

Cộng đồng người Việt tỵ nạn Việt gian cộng sản đã có biết bao người, từ khi đến bến tự do, vừa phải lo cuộc sống ở quê người với môi trường hoàn toàn khác lạ, gặp bao khó khăn, nhưng vẫn bền bỉ đoàn ngũ hóa, bỏ tiền bỏ sức tiếp nối cuộc đấu tranh chống tập đoàn Việt gian cộng sản, nhất là quân nhân, sỹ quan trong QLVNCH. Đấy thực sự là lực lượng chiến đấu bảo vệ an toàn sinh mạng, tự do, dân chủ, hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam; bảo vệ không phận, hải phận và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc VN, bằng chính sinh mạng, máu xương, tuổi trẻ, hạnh phúc của mình. Sau 30-4-1975, trung bình mỗi quân nhân QLVNCH, đã phải chịu đựng từ 10 đến 12 năm trong nhà tù của Việt gian cộng sản. Biết bao người đã bỏ mạng trong chốn địa ngục trần gian đó. Nhiều người phải chịu nỗi đau vì vợ con đi thăm đã bị lũ cai tù trá hình làm cướp hãm hiếp, bắn giết. Nhiều người khi thoát khỏi nhà tù, trên đường vượt biên đã chứng kiến cảnh ngụy quân Việt gian cộng sản cải trang làm cướp biển, cũng như cướp biển Thái lan…hãm hiếp vợ con mình cho đến chết, hoặc quăng những trẻ thơ xuống biển. Những đau khổ khó mà hình dung nổi đó vẫn không làm giảm nhiệt tình đấu tranh cho TỰ DO DÂN CHỦ ĐỘC LẬP cho nhân dân và Tổ Quốc VN, bằng tiền túi, bằng thời gian nghỉ ngơi sau những giờ phút lao động căng thẳng của một xã hội công nghiệp tiên tiến. Thử hỏi có AI được QUỐC TẾ VINH DANH không ???(nhất là QLVNCH).

Cha ông ta đã dạy “Bụt chùa nhà không thiêng”, quả chẳng sai chút nào. Chỉ qua cuốn Đêm giữa ban ngày, của Vũ thư Hiên, một tên mà cả cha lẫn con đều là Việt gian cộng sản thờ Nga-xô, một bản mào đầu cho vở kịch Dân Chủ Cuội nhiều màn, đã được tụi nằm vùng, tụi phở bò, tụi thành phần thứ ba cũ ở VNCH, tụi chính khách nửa dơi nửa chuột, qua sự chỉ đạo kín của Bùi Tín cùng lũ trí thức NGỰA…, cùng đua nhau chiêng trống, phèng la làm náo loạn cả Cộng đồng người Việt tỵ nạn Việt gian cộng sản. Ngoài bọn là PHE của Việt gian cộng sản ra, còn có những người PHE TA hẳn hoi, QUÁ THỰC THÀ, THIẾU NGHIÊN CỨU HIỂU BIẾT VỀ BẢN CHẤT VIỆT GIAN CỘNG SẢN, cũng tham gia khá nhiệt tình vào ván bài cào dân chủ cuội này. Từ diễn đàn Paltalk cho đến báo in, báo điện tử, truyền thanh, truyền hĩnh…đua nhau đi tìm các “Nhà-dân-chủ” để học hỏi, để ủng hộ, để suy tôn, để xin quốc tế trao tặng giải này, giải nọ… làm bùa che thân khỏi bị “Tà quyền với Việt cộng” đàn áp!!!??? Trong khi đó thì số phận của những người thực sự CHIẾN ĐẤU CHO TỰ DO DÂN CHỦ của Việt Nam, không phải bằng “BẤT BẠO ĐỘNG, HÒA BÌNH TUÂN THỦ ĐÚNG PHÁP LUẬT VIỆT GIAN CỘNG SẢN” mà bằng chính máu xương, tuổi trẻ, hạnh phúc gia đình của mình thì BỊ BỎ QUÊN. Đó là các thương phế binh QLVNCH còn đang dưới ách nô lệ đỏ ở Việt Nam. Về chuyện này, nhớ lại lời nhà báo lão thành Việt Thường: “Cơm trắng, thịt ngon không dâng cho Cha,Mẹ mà đem cúng đống mối”! Phũ phàng nhưng sự thật là vậy. Đang LÊN ĐỒNG chờ nhà-dân-chủ ca vọng cổ, có người chí tình NHắC NHỞ thì lập tức lên cơn tam bành tục tặc quăng một lô nón cối, nào là “đánh phá phong trào dân chủ”, nào là đủ thứ ba lăng nhăng mà chỉ những người đang trong giờ phút sống bằng ảo giác, đồng bóng mới nghĩ ra được. Hội chứng tôn thờ nhà-dân-chủ (cuội) kéo khá dài, xâm nhập vào đủ mọi giới, đến mức một ngòi bút trung niên được yêu chuộng và có thực tài cũng nhiễm bệnh, mà lại khá nặng: chắt chiu từng dollar trợ cấp để gửi cúng bạn của Vũ thư Hiên, một tên sùng bái Nga-xô đến lẩn thẩn, vì thế bị dzăng miểng đi tù do sự khai báo THÀNH KHẨN của Hoàng Minh Chính, ông “thánh dưa hấu” của Hoàng cơ Định! Và cũng nhà văn trào phúng đó, một người chịu đọc và đọc khá kỹ lưỡng, thế mà “đồng nhập theo ảnh hưởng của Vũ thư Hiên” đã thổi ống đu đủ tên cơ hội, đối kháng cuội, tác giả Chủ nghĩa Hồ chí Minh và nâng Hồ lên là “Thánh”, là Trần Khuê vọt lên Trời thành “SAO KHUÊ” và còn là “KẺ SỸ BẮC HÀ SỐ MỘT!!!??? Không biết có được hứa hẹn cho chức, cho quyền trong làng VĂN NÔ ĐỎ của Việt gian cộng sản không, qua môi giới của Hiên, mà nỡ bẻ gập ngòi bút như mấy ông già gần trăm tuổi, mọp gối, áo thụng, mắt mũi ướt tèm nhem đập đầu lạy cái ảnh của Cuội-Dân-Chủ Hoàng minh Chính. Sống thì Chính đã phục vụ tận tình sự nghiệp Việt gian của Hồ. Khi chết cũng QUYẾT theo Hồ, cho nên gần Hà-nội thiếu gì đồi núi, mà phải dặn vợ con mang tro cốt lên trải ở Ba Vì, nơi có Đền thờ Hồ Việt gian ???

Nêu những dẫn chứng trên, ai ai cũng đều biết, chỉ mong Cộng đồng tỵ nạn Việt gian chúng ta hãy bình tâm suy nghĩ, gạt bỏ những tuyên truyền bóp méo sự thật, đổi trắng thay đen của đám phở bò, lũ nằm vùng, những lũ chính trị Ngựa đang chờ cái giá phải chăng để bán thân làm nô lệ đỏ, mà hãy LẤY LỊCH SỬ CHÂN THỰC, LẤY KINH NGHIỆM SỐNG CỦA BẢN THÂN làm thước đo ngõ hầu PHÂN BIỆT ĐƯỢC ĐÚNG VÀ SAI.

Hậu quả dịch bệnh đồng cốt của hội chứng các Nhà-Dân-Chủ, do những tên ĐẶC CÔNG ĐỎ gieo rắc đem đến các tác hại thật lớn lao cho cuộc đấu tranh giành Độc lập, Tự do, Dân chủ, Toàn vẹn lãnh thổ, hải phận, không phận của Việt Nam.

Cuộc đấu tranh này là CUỘC CÁCH MẠNG TOÀN DIỆN CHO VN. Sự THÀNH CÔNG chỉ có thể có được với sự LIÊN MINH của NHỮNG NẠN NHÂN CỦA CHẾ ĐỘ NÔ LỆ TOÀN CHẾ, do Tập đoàn Việt gian cộng sản thiết lập, từ Hồ chí Minh đến nay. Cái lực lượng đó là Cộng đồng người Việt tỵ nạn Việt gian cộng sản và trong nước là những TẦNG LỚP NHÂN DÂN BỊ TRỊ, nghĩa là mọi thứ OAN: từ dân oan, giáo oan…Và phải nhớ rằng LỰC LƯỢNG NÒNG CỐT phải là: Dân oan các loại (công nhân, nông dân, các lực lượng tôn giáo “phi Việt gian cộng sản”), trí thức, thanh niên sinh viên tuy quan trọng nhưng KHÔNG THỂ LÀ CHỦ LỰC. Còn ở Hải ngoại thì CHỦ LỰC PHẢI LÀ QLVNCH. Vì lực lượng đó ĐÃ LÀ, ĐANG LÀ trụ cột CHIẾN ĐẤU BẰNG MÁU XƯƠNG, TUỔI ĐỜI, HẠNH PHÚC BẢN THÂN để bảo vệ TỰ DO, DÂN CHỦ, nền tảng của CHÍNH NGHĨA QUỐC GIA, xưa là VNCH, nay là cho TOÀN THỂ NƯỚC VIỆT NAM.

Xin hãy XÓA BỎ ẢO TƯỞNG do bị ảnh hưởng những lời tuyên truyền HOÀN TOÀN CÓ LỢI CHO SỰ TỒN TẠI của Tập đoàn Việt gian công sản rằng:

· Nhiều đảng viên cộng sản “TỐT”, hãy chờ một Gorbachev VN. Đây là một lập luận cực kỳ ấu trĩ mà Việt gian cộng sản rất thích. Cho nên ngay những cuốn sách đầu tiên, đặc công đỏ Bùi Tín đà cổ động cho Võ nguyên Giáp, là người duy nhất lèo lái được con thuyền VN. Chắc vì cố vấn cho Giáp ở trận Điện Biên là nguyên soái Vi quốc Thanh của Tàu cộng đã ngỏm, nên Giáp không dám. Thế là Bùi Tín, cổ động cho phương án 4 quỹ tình thương và hãy chờ một Gorbachev, mà PHẢI LÀ ĐẢNG VIÊN CS! Và cùng với cái me-xừ Gorbachev đó là THIỂU SỐ những Nhà-Dân-Chủ như ANH EM chúng tôi (ý nói là Bùi Tín, với những loại trong nước như Hoàng minh Chính, Lê hồng Hà, Trần đại Sơn, Trần Khuê, Nhuyễn thanh Giang, Hà sĩ Phu, Dương thu Hương…cùng một số tướng ngụy Việt gian cộng sản đã về hưu như Trần Độ, Phùng thế Tài, Nguyễn Tài (tức Nguyễn công Tài, con của bút nô đỏ Nguyễn công Hoan), Võ nguyên Giáp, thậm chí cả Lê khả Phiêu khi thôi chức Tổng bí thư Việt gian cộng sản. Thật là “Tiếu lâm”trên sự tưởng tượng. Thế mà cũng có người tin (kể cả một người như Lm Phan văn Lợi, viết rõ trên giấy trắng, mực đen!) cái mồm của họ Bùi. Còn ngoài nước là các loại như Nguyễn xuân Ngải, Nguyễn ngọc Bích, Lê xuân Khoa, Nguyễn minh Cần, Ngô nhân Dụng, Nguyễn gia Kiểng… và chắc phải có tác giả “Hạt máu thơ”, trường phái Sớ Táo Quân, thành viên quan trọng của nghị hội Tiểu diên hồng năm 2005!

· Bị mê hoặc bởi chuyên viên về tuyên truyền lật đổ và tổ chức nằm vùng của Việt gian cộng sản từ 1960, là Bùi Tín, nên dịch lên đồng cầu nhà-dân-chủ (không phải cầu cơ) trong nước ở hải ngoại đã GIÚP KHÔNG CÔNG cho Tập đoàn Việt gian cộng sản một Đống Cuội-Dân-Chủ, mà Cuội nào cũng được các tổ chức Quốc tế đỡ đầu, Thương hiệu Nhà-Dân-Chủ được cầu chứng quốc tế chắc ăn như bắp! Còn những người đã đem xương máu bảo vệ DÂN CHỦ HIỆN THỰC chứ không phải BÁNH VẼ, là thương phế binh QLVNCH thì sau 33 năm rồi vẫn KHÔNG CÓ GÌ!!! Thật chua sót và nghịch đời. Còn một thằng ăn cắp xe đạp bị chính dân oan và “chiến hữu tố giác là Ngyễn khắc Toàn, thì thoạt đầu được giới thiệu là “cựu chiến binh”(tức lính ngụy Việt gian cộng sản xuất ngũ), nâng lên là “thương gia thành đạt”, rồi lại “giáo viên”, rồi “chủ tịch công đoàn độc lập”, đến nay trong kén chui ra thành “nhà báo tự do”, nằm trong báo cáo nhân quyền của bà Rice, ngoại trưởng Mỹ!!! Rồi Trần Khuê, từ một cán bộ hợp đồng của Viện Hán Nôm đang trên đường giải thể, nâng lên thànhViện trưởng Hán Nôm, đùng một phát thành GIÁO SƯ, để tăng uy tín với quốc tế! Hà sỹ Phu Nguyễn xuân Tụ từ phó Tiến sỹ thành TIẾN SỸ! Ts Nguyễn thanh Giang được nhảy rào thành GIÁO SƯ. Đến Cuội Hoàng minh Chính, từ chức vụ Viện trưởng Viện triết thời kỳ còn nằm trong Ủy Ban Khoa Học Xà Hội, dưới quyền Nguyễn khánh Toàn và Phạm như Cương, nay cũng được phù phép thành GIÁO SƯ.

Một lũ từ kẻ tự suy tôn hoặc không cải chính cái chức danh sai, cho đến lũ tự ý suy tôn đối tượng nằm trong kế hoạch quan trọng hóa lá bài của mình, của tổ chức mình, vậy thử hỏi rằng chúng vì CÁI HƯ DANH mà tự lừa mình và lừa quần chúng, như thế có thể tin rằng chúng đấu tranh, nếu có, cho DÂN CHỦ THỰC hay DÂN CHỦ CUỘI ???

Đó cũng là kinh nghiệm lịch sử cho chúng ta thấy không thể tin được những lũ trí thức NGỰA!

Cũng xin lưu ý đến bạn đọc rằng, hiện nay chúng ta cần vạch mặt những lũ truyền thông đi hàng hai, cũng nên LÔI CỔ lũ tay sai Việt gian cộng sản ĐANG DỰNG ĐỨNG NHỮNG CHUYỆN MÀ CÁC NGÒI BÚT TRUNG THỰC VÌ LỢI ÍCH CHUNG MÀ NÊU RA.

Một thí dụ cụ thể: Xin bạn đọc trước khi nghi hoặc những xuyên tạc về chúng tôi, Nam Nhân, Việt Thường, Lý Tuấn, đồng tác giả cuốn Những Tên Đặc Công Đỏ Trong Phong Trào Dân Chủ VN, hãy đọc cuốn sách đó để biết chúng tôi nói ĐÚNG hay SAI so với thực tế xã hội VN và các tài liệu lịch sử, đã và đang diễn biến. Đọc xong quý vị sẽ hiểu tại sao Đỗ thị Thuấn và tay chân như Vũ Hiến, Phan Xương, Nguyễn trí Thức (ba tên sau còn chưa dám bạch hóa lý lịch), dám dựng chuyện viết bôi nhọ chúnh tôi theo đúng cung cách của Việt gian cộng sản bôi nhọ những người theo xu hướng quốc gia.

Tôi là một sĩ quan QLVNCH, hoạt động từ Cộng đồng cho tới phong trào Hướng đạo, vậy mà tên Phan Xương dám viết rằng tôi là dân đầu gấu Hải phòng, tới Anh theo diện nhân đạo. Con gái nhà báo lão thành Việt Thường, hoạt động full time, có nhiều đóng góp tốt, người đã chất vấn Đỗ thông Minh khi đến Anh để chửi cả dân tộc VN. Và Thông Minh đã cứng họng nghệt mặt ra hết cả thông minh. Phải chờ về Nhật mấy tháng sau mới hoàn hồn viết bài chống chế một cách yếu ớt. Thế mà tên Phan Xương dám bịa rằng cô ta là đại diện cho một công ty du lịch của Việt gian cộng sản! Ai mà vạch ra âm mưu của lũ Bùi Tín và Việt tân chệch hướng là Thị Thuấn lồng lộn của một kẻ chưa bao giờ hiểu thế nào là một bài phản luận hay phản biện. Ngay đại tá Hoàng đạo Thế Kiệt, phê bình một bài viết của Bùi Tín, mụ đã chửi đại tá Kiệt là “đầu hai thứ tóc mà ngu, có sạn”. Xin được hỏi: Chửi thô tục một đại tá QLVNCH, cả một đời cho đến nay vẫn chưa ngưng nghỉ vì nền Tự do và Dân chủ của VN, để bảo vệ một tên đại tá ngụy quân Việt gian cộng sản là Bùi Tín, tận dịp 30-4-2008 này, mới có bài phát biểu còn nửa nạc nửa mỡ, thì không còn gì rõ ràng hơn để khắc họa một tên Việt gian của Việt gian cộng sản cho nằm vùng. Không thể có cách bào chữa nào khác được.

Còn Việt Thường là ai, khổ nhục kế của Việt gian cộng sản hay vì thù nhà, nợ nước mà chống Việt gian cộng sản, chỉ xin quý bạn đọc tham khảo những sách, những bài báo, những bài trả lời phỏng vấn, kể cả phần tự sự do bạn đọc yêu cầu. Tất cả đều có ở Hồn Việt UK Online; vietthuongonline.com; dadaocongsan.com…

Anh quốc, ngày 13 tháng 5 năm 2008

Nam Nhân

posted under | 0 Comments

Tây Tạng, Chặng Đầu Tiên của Mưu Đồ "Hán Hóa Toàn Cầu"


Hùng Nguyễn

Trong những ngày này, thế giới đang bắt đầu thức tỉnh trước âm mưu Hán hóa toàn cầu của Hán tộc (1) nhờ các cuộc nổi dậy và xuống đường của người dân Tây Tạng tại khắp nơi trên thế giới chống lại âm mưu đồng hóa dân tộc của họ bằng cách thức tương tự như cách mà chúng đã làm đối với dòng Bách Việt mấy ngàn năm trước đây: xâm chiếm lãnh thổ, tàn sát đối kháng và di dân Hán đến định cư, đồng thời dùng Khổng thuyết để Hán hóa toàn bộ vùng lãnh thổ mà chúng chiếm được. Dĩ nhiên, tình hình ngày nay có khác nhiều so với thời đại xa xưa, nhất là ở chỗ ngày nay, tập đoàn Bắc Kinh đang âm mưu kết hợp Khổng và Mác làm "áo che" cho các mưu đồ thôn tính lãnh thổ và diệt chủng văn hóa của chúng trên phạm vi toàn cầu, khởi đi từ các nhược tiểu lân bang, trong đó có Tây Tạng.

Để biết thêm về âm mưu Hán hóa toàn cầu này, xin mời quý bạn cùng tìm hiểu về một quốc gia nạn nhân đầu tiên của Hán tộc: Tây Tạng !!!

Nhưng trước hết, người viết xin được đính chính một điều, rằng người viết không phải là một sử gia, cũng chẳng phải một chuyên gia về Tây Tạng, thế cho nên toàn bộ bài viết này, người viết xin được coi như cùng quý bạn đọc tìm hiểm về một đất nước vốn rất xa lạ với chính bản thân người viết. Phần về sử cổ và cận đại của Tây Tạng được tóm lược chính yếu từ hai trang http://omni.cc.purdue.edu/~wtv/tibet/history0.html và http://www.friends-of-tibet.org.nz/tibet.html, và trang của chính phủ lưu vong Tây Tạng, http://www.tibet.com/glance.html, http://www.friends-of-tibet.org.nz/tibet.html, cũng như từ kiến thức thu lượm riêng của người viết.

Vài Đoạn Cổ Sử

Tây Tạng có thể được coi là quốc gia duy nhất trên hành tinh này mà từ ngày lập quốc đến nay, tôn giáo và thế quyền luôn tuy hai mà một, tuy một mà hai. Người ta hầu như không biết gì về khởi nguồn của dân tộc Tây Tạng cho đến khoảng năm 1063 trước Tây lịch, khi lãnh chúa Shenrab Miwo canh cải một loại thần giáo của bộ tộc Shen, hình thành tôn giáo Bon (2) và triều đại Shangshung. Theo truyền thuyết thì có đến 18 vị vua trong thời này, với lãnh thổ bao gồm 3 vùng là Goor, Trung, và Nội.

Vào lúc thoái trào của triều đại Shangshung đã xuất hiện đế chế Bod ,là tên hiện nay của Tây Tạng, do vua Nyatri Tsenpo là vị vua tôn giáo đầu tiên lãnh đạo (127 BC), với quốc thổ bao gồm hai thung lũng Yarlung và Chongyas. Đế chế Bod tồn tại hơn 1000 năm cho đến khi vua cuối cùng là vua Wudum Tsen, thường được gọi là Lang Darma bị ám sát năm 842. Sau đó, vua Songtsen Gampo thống nhất ba vùng, thành nướcTây Tạng mà thế giới biết đến ngày nay.

Vậy lịch sử Tây Tạng đã có 3 vị vua nổi bật là Songtsen Gampo, Trisong Detsen và Ralpachen, và được gọi là "Tam Đại Vương."

Có lẽ thấy người tiền sử Tây Tạng thường có tập tục che mặt hoặc sơn mặt để chống thời tiết khắc nghiệt trong vùng nên người ngoại tộc đã đưa ra truyền thuyết cho rằng người Tây Tạng là hậu thân của một chú khỉ và một tảng đá quỷ. Sau đó, cho đến triều đại Songtsen Gampo, truyền thuyết này được "tu chính" với chú khỉ đổi thành người Avalokitwsvara (Hán tộc gọi là "Quan Âm - Guan Yin"), một đệ tử của Phật Thích Ca, và tảng đá quỷ trở thành nữ thần Tara.

Trên thực tế, vua Songtsen Gampo đã coi mình là hậu kiếp của Quan Âm, và vợ ông, công chúa thuộc Hán Tộc nhà Đường tên Hoàng Trường (Wen-Cheng) là hậu kiếp của nữ thần Tara. Để ý rằng câu chuyện hóa thân này được người Tây Tạng coi là quan trọng. Cho mãi đến ngày nay, lâu đài của Đại-la Lạt-ma tại Lhasa vẫn được gọi là "Cung Điện Potala", mà theo phiên âm tiếng Hán thì "Potala" là "Putou", cũng là tên một hòn đảo trong Đông Hải của Tầu được tin là nơi cư trú của Quan Âm. Cũng theo truyền thuyết, thì:

"Các vua Tây Tạng bị giáng xuống trần bằng một sợi dây thừng nối họ với trời. Khi chết, một đấng trên thiên đình sẽ kéo sợi dây lên cùng với thân xác của họ. Vì thế các vị vua này đều không có thân xác tồn tại, và do đó không có mộ của bảy vị vua đầu tiên của Tây Tạng. Vị vua thứ tám vô tình cắt đi sợi dây trong một cuộc chiến chống phiến loạn. Rồi từ đó trở đi, thân xác các vị vua không còn lên thiên đình được nữa, nên được chôn trong phần đất phía nam Tây Tạng."

Mỗi vị vua của Tây Tạng được đội vương miện từ tuổi 13 với sự bảo dưỡng của chú, bác bên mẹ. Vậy điều khó có thể hình dung ra được là mọi ông vua già đều tạ thế đúng lúc một cách chính xác đến như vậy!

Giao Tiếp Mãn-Hán-Tạng.

Trong thời Hán, đã có sự giao cấu giữa người Shang và người Jian thành ra người Jian-Shang tạm gọi là "Tạng-Hồi".

Vào khoảng thế kỷ thứ 4, sau khi người Tạng-Hồi đông tiến vào phần trung tâm Tầu và thành lập các bộ lạc du mục, người Huyền (Huen), gốc Mãn Châu đã tây tiến vào các vùng người Jian (tỉnh Quỳnh Hải hiện nay), thành lập đế chế Tu-Yu Huyền, lãnh thổ là hầu hết tỉnh Quỳnh Hải hiện nay, trong khi nhà Đường cho người định cư tại các vùng ranh mầu mỡ của tỉnh.

Năm 638, vua Đường tài Chung đã cử danh tướng của họ là Lý Chính, kết hợp với tướng Lý Đậu Chung, tấn công người Huyền. Người Huyền bị thất trận và trở thành chư hầu của nhà Đường. Vua Đường bèn chọn một số gái trong giới hoàng thân quốc thích xa đem gả cho vua Tu-Yu. Đây là thứ hôn nhân bị quan lại nhà Đường khắt khe lên án.

Sau khi quân Tu-Yu bị Đường làm suy yếu, quân Hồi-Tạng đã tấn công từ phương nam. Người Tạng-Hồi cũng đã cử một phái đoàn sang Đường triều xin kết hôn cùng công chúa Đường, nhưng bị người Huyền phá đám. Tạng-Hồi tức giận gửi quân sang tấn công và đẩy lui người Huyền về bờ bắc của hồ Quỳnh Hải. Tranh chấp Tạng-Hán bắt đầu. Sau nhiều chiến thắng quan trọng, Tạng tái gửi một phái bộ sang, và triều đình Đường hiển nhiên đã công nhận cuộc hôn nhân này, vì trong lúc ấy, Đường triều còn đang bận chinh chiến tại hai mặt tây-bắc với người Thổ và đang âm mưu thôn tính Triều Tiên ở mặt đông bắc.

Đám Cưới Hoàng Tộc Hán-Tạng.

Tranh chấp Hán-Tạng đem đến kết quả là nhà Đường, do bận tâm bành trướng tại các mặt trận khác, đã đành tương nhượng, thuận gả Hoàng Trường công chúa cho vua Songtsen Gampo (629-649), tuy rằng nội vụ về đám cưới này cho đến nay vẫn còn một số điểm mù mờ, kể cả về ngày tháng lẫn sự thực chẳng biết cô nàng có phải công chúa Đường thật không hay chỉ là một cô dâu "thế thân". (3)

Thế Thủ Hán-Tạng.

Trong giai đoạn 641-755, từ Đường Tài Chung cho đến Đường Minh Hoàng, đã có một số giao tranh giữa hai đế chế. Có rất ít xung đột trong thời Đường Tài Chung và Songtsen Gampo. Nhưng vua Đường tiếp theo quyết định cho hồi hương số người Huyền còn lại xuống vùng nam Quỳnh Hải bằng cách cử 100 ngàn quân tấn công vùng cao nguyên Quỳnh Hải giáp giới Tây Tạng. Nhưng quân Đường thảm bại với quân số 400 ngàn của người Tạng-Hồi. Quân Tạng đã tiến chiến Xinh-Kang và bắt giữ bốn đạo quân Đường. Sau đó quân Đường phản công, lấy lại bốn đạo quân, nhưng khi lên đến cao nguyên thì lại bị đẩy lui.

Trong giai đoạn này, cả Hán lẫn Tạng đều bành trướng. Hán tấn công người Thổ, Triều Tiên, Xinh-kang, Trung Á (một phần của Liên Xô hiện nay) và xa là đến tận Ba Tư. Người Tạng thì tấn công vương quốc Shangshung, đại Giang-tung, tiểu Giang-tung, vùng Su-pi, vùng ngừơi Huyền, và các bộ lạc nhỏ trong vùng Quỳnh Hải.

Lúc này nhà Đường muốn tái lập nước Tu-Yu Huyền, trong khi người Tạng lại muốn bốn quân đoàn của Đường trong vùng nam Xinh-Kang (đang canh giữ con đường tơ lụa nối từ Xinh-Kang đến Trung Á).

Phật Giáo Du Nhập Tây Tạng.

Hai bà vợ của vua Songtsen Gampo đều là hai tín đồ Phật giáo. Mỗi người đều đem theo một nhóm sư sãi vào Tây Tạng, và đây là khởi thủy của Phật giáo Tây Tạng. Thoạt tiên Phật giáo bị đạo Bon chống đối mãnh liệt. Sau khi vua Songtsen băng hà, triều đình quay sang chống đối Phật giáo. Công chúa Hoàng Trường lúc ấy bèn cử một số sư Đường vào thành phố Xinh-kang chuyển ngữ một số kinh Phật sang tiếng Tạng đồng thời xây thêm một số chùa chiền.

Vị vua thứ 5 Khri-srong-de-stan đã có công chấn hưng Phật giáo Tây Tạng, nhà vua cải từ Bon giáo sang Phật giáo. Dưới triều vua đã có một cuộc tranh luận giữa các tu sĩ Bon và tu sĩ Phật. Nhà vua tuyên bố đạo Phật thắng và rồi cấm đạo Bon. Ông cũng mời các vị tu sĩ nổi tiếng từ Ấn Độ sang truyền bá Phật giáo khắp Tây Tạng.

Nhà vua cũng đã chỉ định 7 quốc sư Tây Tạng đầu tiên, và ra luật buộc cứ 7 gia đình phải có một sư.

Sang đến đời vua thứ 7, nhà vua bắt đầu dùng tu sĩ Phật giáo vào các chức vụ như thượng thư, và phiên dịch các kinh Phật sang tiếng Tạng một cách có hệ thống. Năm 815, vua thứ 8 lên kế vị, là một tín đồ sùng đạo đến độ nhà vua đôi khi trải mớ tóc dài của mình cho các tu sĩ ngồi trên đó mà thuyết pháp. Ông ra luật là bất kỳ ai dám lườm nguýt hay chỉ chỏ vào một nhà sư là phải bị phạt.

Nhưng trong nước thành phần theo đạo Bon vẫn còn nhiều. Nhà vua bị một thừa tướng Bon ám sát để đưa người em lên kế vị nhằm khôi phục Bon. Cùng lúc đó tại nước Tầu, vua Đường là Vũ Chung cấm Phật giáo để thay bằng Lão giáo. Trong khi tại Tây Tạng, vua thứ 9 ra lệnh đốt kinh Phật, buộc mọi người phải vứt kinh Phật và mọi chùa chiền trở thành nơi giết thịt. Khởi đầu thời kỳ suy vi của Phật giáo Tây Tạng.

Trong thời kỳ cấm đạo của nhà vua thứ 9, một số Phật tử tìm đường tị nạn sang các nước khác. Thoạt tiên họ trốn sang miền tây Tây Tạng, và sau đó đến Xinh-Kang. Khi triều đình suy vi, họ trở lại Quỳnh Hải và lập một ngôi chùa nhằm quảng bá Phật giáo.Cùng lúc, một số người Tây Tạng qua Ấn để tu Phật và trở về thuyết pháp. Ngoài ra, còn có một số sư sãi nổi danh Ấn Độ đến Tây Tạng thuyết pháp. Các sự kiện trên có thể được coi là bắt đầu khoảng năm 978.

Nhà Đường Suy Vi, Tây Tạng Bành Trướng (755-841).

Năm 755, tướng thống lãnh đạo binh phía bắc của Đường là An-lộc-Sơn dấy loạn, thống lãnh 150 ngàn tinh binh tiến đến Trường An, thủ phủ nhà Đường, nhưng đã bị kẹt tại Đồng Quan, một thành lớn gần Trường An. Đường Minh Hoàng phải rút các đạo quân canh phòng con đường tơ lụa và binh đoàn bắc và nam Xinh-Kang về bảo vệ thủ phủ. Cuộc chiến kéo dài mãi đến năm 763, khi nhà Đường quyết định phân chia lãnh thổ thành các "vùng quân sự" (mà sau này Mao cũng bắt chước như vậy) thì An Lộc Sơn mới suy yếu và sau cùng thất bại và tự tận.

Nhưng sau khi rút quân bảo vệ đường tơ lụa và hai đạo quan Nam, Bắc bảo vệ Xinh-Kang, thì quân Tạng kéo đến chiếm đóng con đường tơ lụa. Đám quân Hán còn lại tử thủ và tồn tại trong nhiều thập niên chờ quân tiếp viện. Mãi đến năm 790, sau khi các binh sĩ đã già yếu, quân đoàn Bắc bị đánh tan, còn quân đoàn Nam thì phải giải giới và biến mất.

Trong lúc ấy, Tây Tạng tấn công Tứ Xuyên (Szechuan) và đánh nhiều trận quan trọng với quân nhà Đường. Một phần tỉnh Vân Nam (Yunnan) thuộc nhà Đường đã nổi dậy và thành lập một vương quốc riêng. Thoạt đầu, Vân Nam được sự chống lưng của Tây Tạng bằng cách làm chư hầu Tây Tạng. Nhưng sau đó nhà Đường công nhận Vân Nam, và Vân Nam xin làm chư hầu cho nhà Đường.

Năm 763, dưới thời vua Khri-srong-de-stan (755-797, vua thứ 5) quân Tạng tiến đánh chiếm thủ phủ Trường An, lập một vua Tầu khác trong vòng vài ngày, khiến vua quan Đường phải bỏ thành mà chạy. Vua Đường lúc bấy giờ là Huệ Kỳ Quang cùng toàn bộ triều đình phải chấp nhận cống 50 ngàn cuốn lụa mỗi năm.

Chính vua này đã quốc hóa Phật giáo và biến đạo thành một thứ phù trợ cho Dharma. Ông cũng đã cho trục xuất một số sư sãi Tầu và cấm trường Phật học của Tầu, để thay bằng ngành Phật học Ấn.

Năm 848, khi vương triều Tây Tạng suy vi, nhà Đường tái phục hoạt con đường tơ lụa.

Vào trước thời suy vi của đế chế Tây Tạng (821-822, thời vua thứ 8, Ralpachen), vương quốc này đã cai trị Tây Tạng, Quỳnh Hải, con đường tơ lụa, một phần của phía nam Xinh-Kang, một phần trung Á; giáp giới Ấn Độ, Tầu, Persia, Mông Cổ, với dân số khoảng 15 triệu và 400 ngàn quân. Và đây là phần lãnh thổ rộng lớn nhất của đế chế Tây Tạng xa xưa.

Trong khi nhà Đường lúc bấy giờ có khoảng 16 triệu dân và 15 ngàn tinh binh.

Năm 838, em vua Ralpachen lên kế vị. Ông đàn áp Phật giáo và muốn tái lập đạo Bon. Nhưng chẳng bao lâu sau thì bị một tu sĩ Phật giáo ám sát chết, từ đó quyền lực vào tay hai người con ông và đất nước Tạng lâm vào thời kỳ suy vi khởi đầu bằng cuộc nội chiến 20 năm, từ đó mọi phần lãnh thổ bành trướng trước kia đều bị mất hết. Đất nước phân chia nam-bắc do hai phe muốn phò hai người con của vua Ralpachen. Thời kỳ suy vi này kéo dài từ năm 842 cho mãi đến năm 1247.

Vài Đặc Điểm của Phật Giáo Tạng.

Do được truyền bá từ Tầu và từ Ấn sang, lại bị ảnh hưởng của Bon, Phật giáo Tạng là một ngành Phật giáo độc lập với cả hai nguồn gốc này. Phật giáo Tạng đặc biệt được truyền bá mạnh sang Mông cổ. Dưới thời nhà Nguyên đã có một số hoàng thân quốc thích Mông cải đạo theo Phật giáo Tạng.

Đại để, thế hệ đầu tiên của Tạng Phật là ngành Mũ Đỏ (Nying-ma-pa), sau đó phân ra thành Mũ Vàng, Mũ Hoa, Mũ Trắng, Mũ Đen, và sau cùng là Tân Mũ Vàng của các Đại-la Lạt-ma. Trong số đó, ngành Mũ Hoa thiên về chính trị và chính quyền, còn Mũ Vàng và Mũ Đỏ chỉ thuần chú trọng về đạo pháp và tu hành.

Năm 1409, tu sĩ Tsong-kha-pa tổ chức một đại hội nghị nhằm canh cải Mũ Vàng thành Tân Mũ Vàng. Các quy luật quan trọng của ông là:

i. Phải thật nghiêm ngặt ngăn cấm việc tu sĩ nam nữ chung chạ, lấy nhau, hoặc có quan hệ tình dục;

ii. Các sư nam lẫn nữ đều phải sống nhờ cúng dường;

iii. Sư nam, nữ không được có dục vọng chính trị quyền lực;

iv. Duy trì một hệ thống "Phật Sống" Tulku;

v. Xây thêm chùa chiền; vi. Mỗi năm có một hội nghị; vii. Phát văn bằng Geshi về Phật Học.

Vậy ông là vị Đại-la Lạt-ma thứ Nhất! Hai Lạt ma thứ 3 v4 là người Mông Cổ!

Đã có sự tranh chấp gay gắt giữa phái Mũ Trắng và Tân Mũ Vàng. Năm 1642, một chúa Mông đã đáp lời kêu gọi của vị Lạtma Thứ Năm, sau khi tấn công vùng tây Quỳnh Hải đã tiến thẳng vào Tây Tạng đàn áp phái Mũ Trắng lúc ấy vừa thắng thế. Kể từ đó, phái Tân Mũ Vàng trở thành phái có ảnh hưởng nhất của Phật giáo Tạng.

Quan Hệ Tạng-Mông.

Năm 1227, quân Mông Cổ tiến gần đến Lhasa, nhưng bất thần rút về Quỳnh Hải và con đường tơ lụa, đồng thời đòi Tạng phải đầu hàng vô điều kiện. Các lãnh chúa Tạng đã quyết định gửi Saban và cháu vua là Phags-pa đến phe Mông Cổ thương lượng. Tạng chấp nhận đầu hàng với điều kiện mọi tài sản phải được bảo đảm và triều đình không bị mất chức - một hình thức tự trị!!!

Nhà Nguyên chia Quỳnh Hải thành 4 phần: vùng mầu mỡ trở thành một phần của con đường tơ lụa, Đất Mông phía tây bắc, vùng quanh hồ Quỳnh Hải, và phần cao nguyên phía nam là của Tạng, vùng Xinh-Kang và phần giáp ranh Tứ Xuyên là một nước độc lập.

Sau này nhà Nguyên thuận cho người Tạng tự trị với một toàn quyền gọi là "Diba", đồng thời Phật giáo Tạng được trở thành quốc giáo Mông Cổ. Vào cuối thời nhà Nguyên, phái Phật giáo Mũ Trắng, tập trung quanh Lhasa, được nhà Nguyên công nhận như các lãnh tụ địa phương. Năm 1368, quân Minh tiến vào Đại Đô (Bắc Kinh hiện nay), chấm dứt triều đại nhà Nguyên.

Năm 1642, dưới thời Lạtma thứ 5, lãnh chúa Mông là Chí Tu Khan vốn người phái Mũ Trắng chiếm phần tây của Quỳnh Hải, hợp tác với hai lãnh chúa Mông khác, đem 1 vạn tinh binh đến nhằm tiêu diệt phái Mũ Vàng, phục hồi đạo Bon. Cùng lúc một lãnh chúa Mông khác là Ku-sĩ sau khi tấn công vùng tây Quỳnh Hải đã đáp lời kêu gọi của vị Lạtma thứ 5 đem quân vào Tạng nhằm cứu nguy phe Mũ Vàng. Ông đã toàn thắng và từ đó phái Mũ Vàng chiếm thế thượng phong tại Tây Tạng.

Quan Hệ Tạng-Minh.

Sau khi lên cầm quyền, nhà Minh giữ nguyên tình trạng cũ, chấp nhận Tây Tạng làm một nước chư hầu. Nhưng bãi bỏ chức Diba để thay vào một bộ bốn gọi là "Kaloons" mà Kaloon đứng đầu nắm binh quyền. Và để bình định vùng cũng như để thỏa mãn người Tạng, nhà Minh đã cho in một số kinh Phật phân phát trong vùng, cũng như sản xuất một số hàng sang Tạng. Đây cũng là thời kỳ mà hầu hết các chùa chiền tại Tây Tạng được xây dựng.

Năm 1642, vị Lạtma Thứ 5, Ngawang Lozang Gyatso, nhậm chức cả về giáo quyền lẫn thế quyền tại Tây Tạng. Ông là người thành lập hệ thống chính quyền Tây Tạng hiện nay, được gọi là "Ganden Phodrang", tức là "Chiến Thắng Khắp Nơi." Sau khi trở thành lãnh tụ Tạng, ông đến Tầu yêu cầu công nhận quyền của ông. Nhà Minh công nhận vị Lạtma này như lãnh tụ một nhà nước độc lập và bình đẳng. Có lời ghi chép lại rằng vua Minh chẳng những đã ra khỏi điện để tiếp kiến Đại-la Lạt-ma mà còn làm một con đường bí mật xuyên qua tường để vị Lạtma này có thể vào thành mà không phải đi qua cổng chính.

Biết được địa vị quan trọng của các vị Lạt-ma, các thế lực trong vùng vào những năm sau đó triệt để tìm cách kiểm soát đứa trẻ Lạt-ma mới được khám phá, để có thể khuynh đảo tình hình Tây Tạng. Năm 1720, quân Thanh đưa quân bảo vệ một Lạt-ma trẻ vào Lhasha, khởi đầu sự nhúng tay của nhà Thanh vào nội tình Tây Tạng. Năm 1727, do một đại diện của Thanh triều bị ám sát chết ở Lhasha, vua Thanh lúc ấy là Sùng Chính đem quân tiến vào tìm cách kiểm soát nội tình Tây Tạng nhưng không thành công.

Vài Đoạn Cận Sử Tây Tạng.

Vào giai đoạn 1876, dưới triều Lạtma thứ 13, do có quyền lợi mật thiết với nhà Thanh, Anh Quốc đã tổ chức một hội nghị ngày 13-09-1876, nhằm được quyền cử một phái đoàn tới khám phá Tây Tạng. Nhưng phái đoàn này đã bị từ chối không được vào Tạng vì người Tạng không công nhận quyền của người Tầu trong lãnh thổ của họ. Hai hội nghị tiếp theo do Thanh triều tổ chức cũng bị phản đối.

Để đối trọng lại, chính phủ Tạng đã ngầm liên lạc với Sa Hoàng, khiến Anh lo ngại và mở cuộc tấn công Tạng ngày 3-08-1904, dẫn đến hiệp ước Tạng-Anh ngày 7-09 cùng năm. Lúc ấy Lạtma đang ở Mông Cổ tại một tu viện thuộc tỉnh Am Đỗ. Cùng lúc ông nhận hai yêu cầu khẩn: một từ Lhasa thúc giục ông phải khẩn cấp trở về Tạng vì lý do an ninh và không thể chống lại quân Thanh do Châu Ỷ Phong cầm đầu đang muốn tiến vào Tạng; một từ Bắc Kinh yêu cầu ông công du Bắc Kinh. Ông đã chọn đến Bắc Kinh với hy vọng có thể dùng ảnh hưởng của mình để chặn bước tiến của quân Tầu nhà Thanh.

Nhưng khi ông trở lại Lhasa năm 1909, ông đã nhận ra rằng hoàn toàn trái ngược với những gì ông được quân Tầu hứa hẹn tại Bắc Kinh, quân của Châu Ỷ Phong đã tiến vào Tạng. Năm 1910, 2000 quân Thanh do tướng Chung Dinh cầm đầu đã tiến vào Lhasa và tàn sát, cướp bóc, hãm hiếp, tàn phá, khiến vị Lạtma này phải rời Lhasa, giao nhiệm vụ trị nước lại cho một Hội Đồng. Ông đến một phố nhỏ tên Dromo ở phía nam với hy vọng có thể cầu viện người Anh nếu cần. Nhưng quân Thanh đã tiếp tục truy lùng, buộc ông phải đào tị sang Ấn.

Tại Ấn Độ, ông và nội các đã kêu gọi người Anh giúp đỡ Tây Tạng. Trong khi đó tại Tây Tạng quân Mãn Thanh tìm cách lật đổ chính phủ Tạng và sát nhập Tạng thành một tỉnh của Thanh triều. Nhưng chẳng bao lâu sau, cuộc cách mạng 1911 tại Tầu xảy ra, và quân Tầu tấn công quân Thanh ngay tại Lhasa. Nhưng lúc đó, người Tạng nhận lệnh của Lạtma đang lưu vong tại Ấn và phản công đuổi quân Tầu ra khỏi Tạng năm 1912. Trong giai đoạn này, tân thống chế Tầu là Nguyên Sĩ Khải (Yuan Shih-kai) đã cố gắng gửi quân đến Tạng nhưng cùng lúc trấn an người Tạng bằng cách xin lỗi và nói rằng ông muốn tái lập Lạtma, nhưng vị Lạtma này phải bác rằng ông không hề yêu cầu chính quyền Tầu một chức vụ nào cả về tinh thần lẫn thế quyền, và ông tuyên bố Tây Tạng độc lập.

Quân Tầu đã phải rời Tạng năm 1913. Cũng năm này, một hiệp ước song phương Tạng-Mông đã được ký kết, trong đó cả hai đều tuyên bố độc lập với Tầu. Lạtma thứ 13 đã hồi hương và thành lập hệ thống bưu điện và điện tín, đồng thời thực hiện việc hiện đại hóa Tây Tạng. Ông qua đời ngày 17-12-1933.

Trong những năm sau đó, Tầu đã gửi các phái bộ đến Lhasa gọi là để "hòa giải" nhưng trong thực chất là để giải quyết tranh chấp biên giới Hán-Tạng. Phái đoàn Tầu đã được ở tại Lhasa, cũng giống như các phái đoàn của Nepale và Ấn cho đến khi toàn bộ bị trục xuất năm 1949.


Tháng 09-1949, quân Tầu Cộng đã bất thần tấn công Đông Tạng và chiếm Chamdo, tổng hành dinh của Chính Quyền Đông Tạng. Ngày 11-11-1950, chính phủ Tạng đưa phản kháng lên LHQ, nhưng HĐ Thường Trực LHQ quyết định trì hoãn việc giải quyết vấn đề này.

Ngày 17-11-1950, Đức Đại-la Lạt-ma thứ 14 (vị Lạtma hiện nay) phải lên giữ cả giáo quyền lẫn thế quyền vì tình hình rối ren của Tây Tạng, mặc dù lúc ấy ông mới có gần 16 tuổi. Ngày 23-05-1951, một phái đoàn Tạng đã đến Bắc Kinh để đàm phán về vụ xâm lược của Tầu, nhưng trước sự đe dọa về các cuộc tấn công quân sự và thành lập một chính quyền tay sai, phái đoàn đã bị buộc phải ký cái gọi là "Hiệp Ước 17-điểm về Biện Pháp cho Hòa Bình và Tự Do của Tây Tạng."

Tầu Cộng đã lợi dụng văn bản này để tiến hành việc thuộc địa hóa Tạng mặc cho sự phản kháng của người dân Tạng. Đồng thời, Tầu đã vi phạm mọi điều khoản trong việc ký kết một "hiệp ước" bất bình đẳng đối với người dân Tây Tạng.

Ngày 09-09-1951, Hồng Quân Tầu Cộng tiến chiếm Lhasa, từ đó thực hiện một sự hủy diệt một cách có hệ thống, các chùa chiền, tu viện, đàn áp tôn giáo, chính trị, bắt bớ hàng loạt, v.v....

Ngày 10-03-1959, phong trào Toàn Quốc Tạng Phản Kháng chống Tầu Cộng tại Lhasa bùng nổ. Kết quả là Tầu Cộng đã dùng phương pháp "đóng cửa sát nhân", với một con số không ai biết là bao nhiêu người Tây Tạng đã bị giết chết và bắt bớ.

Ngày 17-03-1959, Đại-la Lạt-ma rời Lhasa sang trốn thoát khỏi sự truy lùng của quân Tầu Cộng và sang tị nạn chính trị tại Ấn Độ. Theo sau ông là hàng chục ngàn người Tạng bị buộc phải rời quê hương đi tị nạn.

Tây Tạng - Tổng Thể.

Tạng là một nước trong vùng Trung Á, diện tích 2.5 triệu cây số vuông, là nơi được mệnh danh "Mái Nhà của Thế Giới", vì ở độ cao trung bình là 13,000 bộ trên mực nước biển. Tây Tạng Bắc giáp Tân Cương; nam giáp Ấn, Nepal, Bhutan; tây giáp Ấn, đông giáp Tầu, với diện tích lớn gấp trên 7 lần Việt Nam.

Bỏ qua các mơ hồ về ranh giới thời vua chúa xa xưa, Tây Tạng có thể coi là gồm 3 tỉnh: Amdo, Kham, U-Tsang. Hiện nay quân Tầu đã tách rời và phân chia như sau:

- Amdo phân thành tỉnh Quỳnh Hải-Qinghai, Gansu và Tứ Xuyên-Sichuan.

- Kham bị sát nhập phần lớn thành Tứ Xuyên và Vân Nam.

- U-Tsang bị Tầu goi là "Vùng Tự Trị Tây Tạng - TAR - Tibet Autonomous Region".

Riêng vùng TAR này bao gồm gần nửa lãnh thổ Tạng nguyên thủy, do Mao thành lập năm 1956. Điểm đáng lưu ý là Khi người Tầu nói đến "Tây Tạng", thì họ muốn nói đến vùng TAR này. Còn người Tạng khi nói đến TAR thì bao gồm toàn bộ 3 tỉnh nêu trên, tức là lãnh thổ của họ trước khi quân Tầu Cộng xâm lăng năm 1949-1950.

Ngày nay, Tầu Cộng đã cho di dân Tầu đến Tạng và kết quả là dân số Hán còn cao hơn nhiều so với dân Tạng.

Tại Sao Tầu Cộng Cương Quyết Thôn Tính Tây Tạng?

Qua bản đồ bên phải trên, ta thấy phía nam Tạng, giáp giới với Ấn là rặng Hy-mã-lạp-sơn với ngọn núi cao nhất thế giới là ngọn Everest. Trong thời xa xưa, khi phải chuyển quân bằng chính yếu là ... bộ binh, xe kéo, và ngựa chiến, ..., thì việc tấn công lên một vùng cao nguyên núi non hiểm trở quả thật chẳng phải chuyện dễ. Nhất là khi cao độ của Tạng lên đến 13,000 bộ, là độ cao khiến người mới đến rất dễ dàng bị rối loạn tim mạch và do đó là tâm-sinh lý. Cao độ đặc biệt và khi hậu không tốt đã ảnh hưởng nặng nề đến cả thực vật; thí dụ: "Đông trùng, hạ thảo" (mùa đông là côn trùng, mùa hè thành cây) là thứ sinh vật, dùng làm thuốc, mà có lẽ là duy nhất trên thế giới, có thể mọc ở cao nguyên Tây Tạng.

Cao nguyên Tạng cũng là nơi phát xuất của hai con sông lớn của Á châu là Mê-kông và Trường Giang (Dương Tử). Nếu có một biến động vào hai nguồn này thì chẳng những toàn bộ các nước thuộc lưu vực Mê-kông mà còn toàn bộ nước Tầu đều bị ... khốn đốn.

Do vậy, Tây Tạng chiếm một vị trí chiến lược địa dư, kinh tế vô cùng quan trong đối với Tầu, trong khí chính người dân Tạng lại chẳng được hưởng bao nhiêu vì nằm trên ... thượng nguồn, lại chẳng có các loại mỏ năng lượng như dầu hỏa chẳng hạn.

Vào thời nay, trong mưu đồ "Hán hóa toàn cầu" - mà nói trắng ra là "xâm thực/lược toàn cầu" - thì phía tây Tầu cũng là một hướng bành trướng. Do vậy Tây Tạng là một trở ngại vô cùng lớn lao cho mưu đồ Hán hóa toàn cầu của Tầu Cộng.

Ngược lại, nếu muốn tiến vào Tầu, từ phía tây nam, người ta có thể thành lập hậu cứ ở sườn đông-bắc của Hy mã lạp sơn làm bàn đạp tiến xuống vùng thung lũng thấp hơn một cách dễ dàng. Nếu Ấn chẳng hạn, thực hiện được điều đó, có nghĩa là một Tây Tạng hùng mạnh và độc lập đương nhiên là rào cản to lớn cho âm mưu bành trướng Hán tộc về phía tây.

Như vậy, Tây Tạng cũng giữ một vị trí chiến lược địa dư giống như Miến Điện và Việt Nam, là những "chốt" thiên nhiên mà giặc Hán phải "bứng" cho bằng được. Nhưng cũng vì nằm trong đất liền, lại không có nhiều tài nguyên thiên nhiên, nên vùng đất Tạng khó thu hút sự lưu tâm và giúp đỡ của Tây Phương so với các vùng khác, như Việt Nam chẳng hạn!

Trong khi đó, một nước Tầu dở dở ương ương, lại từ ngàn xưa có tham vọng thôn tính bành trướng, nhưng luôn luôn bị một đại quốc là Nga đè bên trên và Nhật ở phương đông, thì chúng, trong giai đoạn vài mươi năm tới, chỉ còn hai hướng chính để khởi động chiến dịch xâm thực: tây và nam. Vậy thì chỉ còn 3 chốt chặn chính là Afghanistan Pakistan phía tây, Ấn phía tây, Miến Điện phía tây-nam, và Việt Nam phía đông-nam. Mà trong đó, Tây Tạng và Tân Cương bị chúng dùng làm "bàn đạp" cho mưu đồ tây tiến của chúng, và tiếp theo (hoặc cùng lúc) là Miến ở mặt nam và Việt Nam ở đông-nam.

Tuy nhiên, vị trí địa dư của Tạng cũng không phải là hoàn toàn "ung dung", vì Tạng bị bao vây trong nội địa, không hề có bờ biển. Việc canh nông, du mục, phần lớn dựa vào nông nghiệp và chăn nuôi dọc theo hai bên bờ thượng nguồn sông Mêkông. Do vậy, muốn duy trì được một quốc gia độc lập lâu dài trong đất liền kiểu này tưởng chỉ còn cách là Tạng hoặc liên minh với Tầu, là điều đã không thể thực hiện được trong quá trình lịch sử gần 4000 năm của họ. Hoặc giả họ phải liên minh với Ấn để tìm đường thông thương với bên ngoài.

Cái sự khó khăn địa dư này đã được tác giả trang "A Short History of Tibet -http://omni.cc.purdue.edu/~wtv/tibet/history0.html" nhận định như sau:

"Núi non và khí hậu xấu đã biến vùng này thành ra không tự lập được. Đã có cải tiến vật chất trong đời sống thường nhật của người Tạng. Thí dụ, đã có phát triển về điện tại Tây Tạng, tuy còn giới hạn. Khi tôi còn ở Nagqu (phía bắc Tạng), chỉ có mỗi ngày 4 giờ có điện, và hầu hết mọi người dùng quần áo bằng bông gòn, và rau (mà theo truyền thống là rong rêu), v.v.... Tất cả những vật liệu này đều đến từ vùng người Hán, hầu hết đều có giá của nó. Tôi đã nhìn thấy hàng đoàn xe vận tải chất đầy vật liệu đến Tạng, và hoàn toàn trống rỗng khi trở về. Điều khó là người Tạng không thể sống theo kiểu xưa, trong khi lối sống mới đòi hỏi phải có trợ lực đáng kể từ một nơi nào đó bên ngoài. Bất kỳ ai đưa ra một kế hoạch tương lai cho Tạng phải cho chúng ta biết rằng nguồn trợ cấp này (khoảng 200 triệu mỹ kim hàng năm) đến từ nơi đâu.

Tôi đã quan sát các xa lộ dẫn từ Quỳnh Hải, Tứ Xuyên, Vân Nam và Xinh-Kang được xây dựng. Quân Tầu có thể đến Lhasa từ những nơi này trong vòng 1 ngày. Vậy điều không thể thực hiện được là việc tiến hành một cuộc chiến chống quân Tầu trong nội địa Tây Tạng."

Do những trở ngại thiên nhiên nêu trên, cùng với vị thế độc đáo của nền văn hóa và Phật giáo Tây Tạng, ta thấy có lẽ đây là điểm mạnh duy nhất của Tạng và cũng là lý do khiến vị Lạtma hiện nay cương quyết đấu tranh cho văn hóa và Phật giáo Tạng.

Trong khi đó văn hóa Hán nói chung trên thực chất là cái thứ "văn hóa xâm thực" bắt nguồn từ Khổng, Lão, Mạnh, và trong thế kỷ 21 này, là một kết hợp ma quỷ của hai hình thái cực đoan Đông-Tây là Khổng và Mác!

Cng với vị trí chiến lược của Tạng thiên nhiều về quân sự hơn là kinh tế, thì tưởng trận đồ đã rõ, nhưng kết quả tối hậu sẽ ra sao? Nếu để ý rằng trên thực tế nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố phi thường - ở đây tưởng cũng nên nhấn mạnh đến yếu tố liên minh giữa các nạn nhân của âm mưu Hán hóa này, trong đó có cả Việt Nam, Lào và Miến Điện - thì thật khó ai có thể tiên đoán nổi kết quả !!!

HN - 04-19-2008

Ghi Chú:

1. Hán tộc: Sau mấy ngàn năm, từ khi Hán Cao Tổ Lưu Bang thành lập nhà Hán và sau đó là việc "quốc hóa" Khổng học vào hệ thống chính quyền, thì nay "Hán tộc" ở đây phải được coi là bất kỳ ai theo văn hóa Khổng, đặc biệt là dùng tiếng Tầu, và sống trong nước Tầu, kể cả một số người gốc Bách Việt nhưng lại dùng Hán tự và theo Khổng trong vùng Hoa Nam, sống và chủ trương bành trướng văn hóa Hán Khổng, hay khoác áo Khổng cho mưu đồ xâm lăng toàn cầu, về bất kỳ phương diện nào, văn hóa, chính trị, kinh tế, v.v....

2. Bon: Thần giáo phát sinh tư Tây Tạng, do lãnh chúa Shenrab sáng lập. Theo giáo này thì ba anh em là Dagpa, Salba và Shepa cùng học đạo trên "thiên đàng" gọi là Sridpa Yesang từ thần thông thái Bumtri. Khi hoàn tất, họ đến viếng Thần Thông Cảm Shenlha Okar và hỏi rằng làm cách nào có thể giúp đỡ chúng sinh đang trầm luân trong bể nghèo khổ. Thần khuyên họ nên là người dẫn đạo cho nhân loại bằng 3 chặng đời của thế giới. Theo đó, người anh cả Dagpa học về thế giới đã qua; người thứ nhì là Salba về thế giới thế giới hiện nay; người em út về thế giới tiếp theo.

3. Về vụ đám cưới Hoàng Trường công chúa, có ít nhất 3 giả thuyết như sau:

i. Theo sử liệu nhà Đường, Hoàng Trường "lên kiệu hoa" năm 641. Vua Tây Tạng đã tỏ ra rất độ lượng và lịch thiệp ở địa vị con rể khi tiếp nhận tướng Lý Đậu Chung. Ông tỏ ra rất ngưỡng mộ y phục và lễ nghi Hán tộc. Ông đã xây một cung điện cho công chúa Hoàng Trường và gửi người hoàng gia qua Đường du học. Nhà vua mất 9 năm sau đó, còn công chúa Hoàng Trường thì phải tiếp tục ở lại Tây Tạng 30 năm.

ii. Theo lời vị Đại-la Lạt-ma thứ 5, thì nhà vua lúc ấy được 25 tuổi và đã gửi bốn nhóm từ bốn cửa tại Lhasa tiếp đón công chúa. Công chúa Hoàng Trường đã dùng quyền năng của nữ chúa để đáp lễ với cả bốn nhóm này. Lúc bấy giờ nhà vua đã có vợ là công chúa Tsu Tsuang từ Nepal. Mặc dù công chúa Tsu Tsuang đã ở địa vị là hoàng hậu, lớn hơn Hoàng Trường, nhưng công chúa Hoàng Trường lại có địa vị cao hơn vì bà là nữ thần. Do vậy quyền lực được cân bằng và cả ba đều sống trong hạnh phúc. Câu chuyện đáng lưu ý ở đây là Hoàng Trường xây cung điện Potala và chùa Ramoqe (hướng mặt tiền về phía Trường An là kinh đô nhà Đường). Còn công chúa Nepal thì xây một ngôi chùa Da-Zhua lớn hơn nhiều (xoay mặt về hướng Nepal). Cả hai đều không có con. Sau này một thứ bệnh dịch đã làm cả ba người chết cùng lúc, và họ sống hạnh phúc mãi trên thiên đàng.

iii. Trong khi đó một số ngòi bút Tây Tạng lại cho rằng Vua lúc ấy đã 70 tuổi, và hai vị công chúa không thèm nhìn mặt nhau. Sau đó khoảng 1 năm, họ đã gặp nhau và đã sống với nhau khoảng 2 năm trước khi nhà vua tạ thế.

Theo nhận định của tác giả trên trang http://omni.cc.purdue.edu/~wtv/tibet/history3.html, thì:

"... Tôi phỏng đoán rằng Hoàng Trường nguyên là một con gái của tướng Lý, và Vua lúc đó khoảng trung niên (35 tuổi) như đã được mô tả rằng nhà vua 'lịch thiệp ở địa vị con rể khi tiếp nhận tướng Lý Đậu Chung' là người sau đó đã xông pha trận mạc, do đó lúc ấy chắc không thể là một người già. Cuộc hôn nhân này kéo dài 9 năm cho đến khi nhà vua tạ thế. Trong chín năm này, công chúa Nepal có nhiều ảnh hưởng hơn (qua kích thước của ngôi chùa mà cho đến nay vẫn còn được bảo trì). Cung điện Potala được xây vào lúc đó bởi các kiến trúc sư nhà Đường dưới sự chỉ đạo của công chúa Hoàng Trường. Công chúa này đã sống được 30 năm sau đó như đã được minh chứng qua các cuộc tiếp xúc của bà với các Đường tăng trên đường đến Ấn Độ."

posted under | 0 Comments
Older Posts

Followers


Recent Comments